Nhà cung cấp có thể sử dụng thuốc chống buồn nôn để điều trị các tình trạng như tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần, rối loạn lưỡng cực và chứng sa sút trí tuệ, gây ra các triệu chứng rối loạn tâm thần hoặc mất liên lạc với thực tế. Dopamine dư thừa có thể đóng một vai trò trong chứng rối loạn tâm thần.
Dopamine là một chất truyền tin hóa học hoặc chất dẫn truyền thần kinh ảnh hưởng đến tâm trạng và vận động. Thuốc chống buồn nôn ngăn chặn các thụ thể dopamine trong não, nguyên nhân làm giảm mức dopamine.
Nguy cơ đột quỵ do thuốc chống buồn nôn
Có mối liên hệ giữa việc sử dụng thuốc chống buồn nôn và chứng sa sút trí tuệ ở người lớn tuổi và tăng nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ hoặc cục máu đông chặn dòng máu trong não. Dữ liệu từ những nghiên cứu này đã khiến Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đưa ra cảnh báo hộp đen
Các loại thuốc khác để điều trị buồn nôn liên quan đến hóa trị liệu hoặc chứng đau nửa đầu cũng chặn các thụ thể dopamine hoặc thuốc chống nôn (ADA). ADAs ngăn chặn sự truyền dopamine đến ruột và vùng kích hoạt thụ thể hóa học trong não, chịu trách nhiệm chuyển tiếp các tín hiệu gây nôn.
Điều này khiến các nhà nghiên cứu có trụ sở tại Pháp từ Đại học Bordeaux INSERM, Sorbonne Université, INSERM và CHU de Bordeaux đánh giá xem việc sử dụng ADA có làm tăng nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ hay không.
Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra dữ liệu của 2.612 người lớn từ cơ sở dữ liệu của hệ thống chăm sóc sức khỏe hoàn trả của Pháp từ năm 2012 đến năm 2016. Những người tham gia nghiên cứu đã trải qua một cơn đột quỵ do thiếu máu cục bộ ban đầu và được hoàn trả cho một hoặc nhiều ADA trong vòng 70 ngày trước khi đột quỵ.
Nghiên cứu đã xác định 3 ADA: Domperidone, metoclopramide và metopimazine. Domperidone và metopimazine không được FDA chấp thuận sử dụng để điều trị buồn nôn và nôn ở Hoa Kỳ.
Các nhà nghiên cứu đã đánh giá tần suất ADA để hoàn trả cho mỗi người tham gia vào các ngày 1 – 14 trước đột quỵ (giai đoạn nguy cơ) và các ngày 29 – 42, 43 – 56 và 57 đến 70 trước đột quỵ (thời gian tham khảo).
Các nhà nghiên cứu đã so sánh dữ liệu của người tham gia với nhóm đối chứng gồm 21.859 người tham gia được chọn ngẫu nhiên không trải qua đột quỵ do thiếu máu cục bộ. Nghiên cứu so khớp những người tham gia nhóm đối chứng với những người tham gia bị đột quỵ theo độ tuổi, giới tính và các yếu tố nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ.
Độ tuổi trung bình của những người tham gia nghiên cứu là 71,9 tuổi, và khoảng một phần ba là nam giới. Khoảng 97% những người bị đột quỵ do thiếu máu cục bộ đã nhận được một loại thuốc ADA.
ADA làm tăng nguy cơ đột quỵ lên gấp ba lần
Nghiên cứu cho thấy những người tham gia nhận ADA nói chung có nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ cao hơn 3,12 lần so với nhóm đối chứng sau khi điều chỉnh các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ.
Metopimazine làm tăng đáng kể nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ 3,62 lần, metoclopramide 3,53 lần và domperidone 2,51 lần. Metopimazine và metoclopramide vượt qua hàng rào máu não, tuy nhiên, domperidone thì không.
Phân tích độ nhạy chỉ ra rằng nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ là cao nhất 7 ngày trước khi đột quỵ do thiếu máu cục bộ. Phân tích độ nhạy là một phương pháp để xác định sức mạnh của các tác động được thấy trong một nghiên cứu tạo nên độ tin cậy cho các phát hiện.
Tiến sĩ Anne Bénard-Laribière, Dược sĩ, Thạc sĩ Y tế Dân số Đại học Bordeaux và đồng tác giả nghiên cứu nói: “Công bố đưa ra một tín hiệu mạnh mẽ liên quan đến việc sử dụng thuốc chống nôn với việc tăng nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ. Ngay bây giờ, vì đây là nghiên cứu đầu tiên chứng minh nguy cơ nên cần phải nhân rộng để xác nhận và củng cố những phát hiện vốn đã mạnh mẽ, và lý tưởng là cung cấp thông tin bổ sung về cơ chế và các yếu tố nguy cơ.”
Trên đây là bài viết cung cấp thông tin về một số loại thuốc chống buồn nôn có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ. Nghiên cứu đã không kiểm tra các ADA khác được bán trên thị trường ở Hoa Kỳ, chẳng hạn như prochlorperazine, promethazine và chlorpromazine. Vì thế vẫn còn chờ các nhà khoa học nghiên cứu sâu thêm để đưa ra những kết luận cụ thể.
Bảo Hân
Nguồn tham khảo: Medical News Today
Lưu ý: thông tin trong bài viết chỉ dành cho mục đích tham khảo và tra cứu, không thay thế cho việc thăm khám, chẩn đoán hoặc điều trị bệnh. Người bệnh cần tuân theo hướng dẫn của bác sĩ, không tự ý thực hiện theo nội dung bài viết để đảm bảo an toàn cho sức khỏe.