Đục thủy tinh thể là dấu hiệu mất tính trong suốt thường có của thủy tinh thể tự nhiên. Hiện tượng này có thể là hậu quả của sự phá vỡ cấu trúc protein thông thường, sự lắng đọng bất thường của các protein trong lòng thủy tinh thể hoặc do kết hợp cả hai yếu tố gây ra. Đây là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước trên thế giới.
Các yếu tố nguy cơ gây đục thủy tinh thể
Những yếu tố sau thường gây nên tình trạng đục thủy tinh thể:
- Đái tháo đường;
- Hút thuốc;
- Tiếp xúc ánh sáng mặt trời;
- Không đảm bảo chất dinh dưỡng;
- Lạm dụng rượu;
- Sử dụng Aspirin;
- Gene di truyền.
Nguyên nhân gây đục thủy tinh thể
Đục thủy tinh thể người già
Hiện tượng oxy hóa khử có vai trò quan trọng nhất trong hình thành đục thủy tinh thể ở người già. Khi còn trẻ, các phân tử có gốc glutathione có vai trò quan trọng trong hoạt động chống lại oxy hóa khử, tạo sự cân bằng giữa hiện tượng oxy hóa khử và chống oxy hóa khử trong lòng thủy tinh thể. Điều này giúp thủy tinh thể luôn được ổn định về cấu trúc cũng như tính chất hóa lý. Tuy nhiên, khả năng hoạt động và độ tập trung của các phân tử glutathione giảm dần theo tuổi khiến hoạt động gây oxy hóa khử tăng lên làm biến đổi các protein, các tế bào biểu mô bị phá hủy, dẫn đến đục thủy tinh thể.
Đục thủy tinh thể bệnh lý
Đục thủy tinh thể bệnh lý có thể do rối loạn chuyển hóa (hội chứng Lowe, galactose huyết, hạ calci huyết, đái tháo đường), do bệnh tại mắt, do bệnh toàn thân (đái tháo đường, bệnh hệ thống) hoặc do ngộ độc (thuốc lá, rượu, thuốc) gây ra. Các bệnh lý rối loạn chuyển hóa và bệnh toàn thân thường gây rối loạn cân bằng điện giải giữa trong và ngoài thủy tinh thể, đồng thời quá trình oxy hóa khử các protein thủy tinh thể cũng bị kích hoạt mạnh mẽ hơn khiến quá trình đục thủy tinh thể diễn ra nhanh chóng.
Trong khi đó, bệnh lý tại mắt khiến quá trình cung cấp chất dinh dưỡng, cung cấp oxy cho thủy tinh thể giảm xuống, đồng thời việc thải các chất cặn bã bị ngưng trệ cũng là nguyên nhân khiến thủy tinh thể mất dần tính trong suốt. Các bệnh tại mắt gây ảnh hưởng tới thủy tinh thể thường được nhắc đến như bệnh mạch máu, glôcôm, viêm màng bồ đào, bong hắc, võng mạc,…
Ngoài ra, các thuốc và hóa chất sử dụng cũng có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình hình thành đục thủy tinh thể. Có rất nhiều loại thuốc được đề cập tới trong y văn như: Steroid, các thuốc co đồng tử, chlorpromazine, allopurinol, chloroquine và amiodarone.
Đục thủy tinh thể chấn thương
Các nguyên nhân chấn thương gây đục thủy tinh thể được nhắc đến bao gồm do tia xạ, do chấn thương đụng dập, chấn thương xuyên và bỏng. Trong khi vết thương xuyên thường gây tổn thương trực tiếp vỏ của thủy tinh thể, gây ngấm nước và đục vùng vỏ tại khu vực quanh vết rách, sau đó lan dần gây đục thủy tinh thể toàn bộ thì chấn thương đụng dập thường gây các lực ép làm biến dạng thủy tinh thể.
Dấu hiệu đục thủy tinh thể
Người bệnh đục thủy tinh thể thường có các dấu hiệu sau:
- Giảm thị lực: Thị lực giảm nhiều hay ít tùy thuộc mức độ và vị trí đục. Thị lực nhìn xa giảm rõ rệt. Ở giai đoạn sớm, người bệnh có thể nhìn thấy những điểm đen, màn sương mờ trước mắt. Một số người lớn tuổi có hiện tượng giảm số kính đọc sách do hiện tượng cận thị hóa, cận thị thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình do đó nhìn gần thường rõ hơn.
- Loá mắt: Người bệnh đục thủy tinh thể có thể phàn nàn vì loá mắt đến mức chói mắt đối với ánh sáng ban ngày, ánh đèn pha trước mặt hoặc các điều kiện chiếu sáng tương tự vào ban đêm
- Rối loạn màu sắc: Người bệnh thường có biểu hiện nhìn màu biến đổi nhất là các màu gần trục màu xanh.
- Song thị một mắt: Người bệnh thường thấy những bóng mờ song song với hình nhìn được.
Đục thủy tinh thể đeo kính gì?
Rất nhiều người bệnh có thắc mắc: “Đục thủy tinh thể đeo kính gì?”. Không giống với các trường hợp nhìn mờ trong các bệnh lý như cận thị, viễn thị, hay lão thị, người bệnh có thể dùng kính để tăng thị lực, nhìn mờ do bệnh, đục thủy tinh thể thường không có loại kính nào có thể chữa bệnh dứt điểm được.
Cho đến nay, không có loại kính nào hay thuốc nào có thể làm chậm lại, phòng ngừa hoặc chữa được đục thủy tinh thể. Dù vậy, trong một số trường hợp đục thủy tinh thể giai đoạn đầu, chủ yếu nguyên nhân do lão hóa, thì việc sử dụng kính lão kết hợp tăng độ sáng của môi trường xung quanh có thể giúp người bệnh nhìn rõ hơn phần nào. Việc sử dụng kính lúp phóng đại, kê đơn kính theo từng thời điểm đục thủy tinh thể giúp duy trì được chức năng cho người bệnh trong một giai đoạn nhất định. Ngoài ra, sử dụng kính sẫm màu giúp người bệnh đục vỏ thủy tinh thể giai đoạn đầu bớt cảm giác lóa mắt.
Phẫu thuật đục thủy tinh thể
Dẫu vậy, theo thời gian, thị lực sẽ giảm dần do đục thủy tinh thể ngày một nặng hơn. Khi đó, bất kể loại kính nào cũng không có ích trong việc hỗ trợ người bệnh cải thiện thị lực. Đa phần người bệnh đục thủy tinh thể đều cần đến các phương pháp phẫu thuật để hồi phục thị lực. Các phương pháp mổ đục thủy tinh thể bao gồm:
- Mổ lấy thủy tinh thể trong bao: Là phẫu thuật toàn bộ thủy tinh thể nằm bên trong cùng với lớp bao của nó. Ngày nay, phương pháp phẫu thuật lấy thủy tinh thể ngoài bao hầu như đã thay thế hoàn toàn phương pháp lấy thủy tinh thể trong bao do ít biến chứng hơn và còn giữ lại túi bao thủy tinh thể để đặt thủy tinh thể nhân tạo. Mổ thủy tinh thể trong bao chỉ còn được áp dụng trong những trường hợp lệch thủy tinh thể nhiều.
- Mổ lấy thủy tinh thể ngoài bao: Là phẫu thuật lấy đi khối nhân và toàn bộ chất vỏ thủy tinh thể qua một khoảng mở ở trung tâm của bao trước và để lại bao sau tại chỗ. So với mổ thủy tinh thể trong bao, phương pháp này có nhiều ưu điểm hơn. Thủy tinh thể nhân tạo được cố định tốt hơn nhiều do bao sau còn nguyên vẹn. Phương pháp này cũng hạn chế các biến chứng sau mổ (bong võng mạc, phù hoàng điểm dạng nang và tăng nhãn áp).
- Phương pháp tán nhuyễn thủy tinh thể bằng siêu âm (phacoemulsification): Bản chất là phẫu thuật ngoài bao nhưng nhân thủy tinh thể được lấy ra sau khi đã được tán nhuyễn bằng đầu siêu âm. Phương pháp này giúp người bệnh nhanh chóng phục hồi thị lực một cách tốt nhất.
- Phương pháp ứng dụng laser Femtosecond trong phẫu thuật Phaco: Thay vì chẻ nhỏ nhân thủy tinh thể đục bằng năng lượng Phaco hoặc dụng cụ chopper, người ta sử dụng tia laser để cắt nhỏ nhân thủy tinh thể. Ngoài ra có thể dùng tia này để tạo vết mổ trên giác mạc hoặc cắt bao sau với độ chính xác cao về kích thước, vị trí, độ sâu.
Qua bài viết trên đây, Nhà Thuốc Long Châu đã giải đáp câu hỏi “Đục thủy tinh thể đeo kính gì?”, hi vọng đã mang lại thông tin hữu ích tới quý đọc giả!
Ánh Vũ
Nguồn tham khảo: Tổng hợp
Lưu ý: thông tin trong bài viết chỉ dành cho mục đích tham khảo và tra cứu, không thay thế cho việc thăm khám, chẩn đoán hoặc điều trị bệnh. Người bệnh cần tuân theo hướng dẫn của bác sĩ, không tự ý thực hiện theo nội dung bài viết để đảm bảo an toàn cho sức khỏe.