Khó nuốt là một dấu hiệu của bệnh lý hầu họng hoặc thực quản. Nếu chỉ bị khó nuốt một vài lần thì không phải là bệnh lý, nhưng khó nuốt thường xuyên là bệnh lý cần phải điều trị.
Tổng quan chung: Chứng khó nuốt là gì?
Khó nuốt là tình trạng cơ thể phải mất nhiều thời gian và sức lực hơn để vận chuyển thức ăn hoặc chất lỏng từ miệng đến dạ dày. Chứng khó nuốt cũng có thể đi kèm với đau. Trong một số trường hợp, bạn không thể nuốt được.
Các tình trạng khó nuốt thông thường có thể xảy ra khi bạn ăn quá nhanh hoặc không nhai kỹ thức ăn. Những trường hợp này không đáng lo ngại. Tuy nhiên, chứng khó nuốt kéo dài có thể chỉ ra một tình trạng sức khỏe nghiêm trọng cần điều trị.
Khi chứng khó nuốt trở nên trầm trọng thì ngay cả chất lỏng và chất rắn đều không thể xuống được thực quản và có thể khiến người bệnh bị nôn hết thức ăn và nước uống ra ngoài.
Ở người bình thường, hoạt động nuốt có thể diễn ra rất nhiều lần trong ngày để giúp thức ăn, chất lỏng và những chất ngày do cơ thể tiết ra đi vào trong cơ thể, quá trình nuốt bao gồm các giai đoạn sau:
- Giai đoạn đầu: Là giai đoạn thức ăn ở trong khoang miệng, tại đây, thức ăn, chất lỏng sẽ được nhai và nhào trộn để chuẩn bị nuốt.
- Giai đoạn hai: Là giai đoạn miệng, lưỡi sẽ đẩy thức ăn hoặc chất lỏng trong khoang miệng vào phía sau của miệng và kích thích phản xạ nuốt.
- Giai đoạn ba: Hay còn gọi là giai đoạn hầu, thức ăn và chất lỏng sẽ đi qua hầu họng và sau đó tiến vào thực quản.
- Giai đoạn bốn: Thức ăn và chất lỏng sẽ qua thực quản và đi thẳng vào dạ dày.
Triệu chứng
Các dấu hiệu và triệu chứng liên quan bao gồm:
- Đau khi nuốt
- Không thể nuốt
- Cảm giác thức ăn bị mắc trong cổ họng, ngực hoặc phía sau xương ức
- Chảy nước dãi
- Khàn tiếng
- Ợ lên (trào ngược thức ăn)
- Thường xuyên bị ợ nóng
- Thức ăn hoặc axit dạ dày trào ngược lên cổ họng
- Giảm cân đột ngột
- Ho hoặc nôn khi nuốt
- Phải cắt thức ăn thành những miếng nhỏ hơn hoặc tránh một số loại thực phẩm vì khó nuốt.
Nguyên nhân
Người bệnh mắc phải chứng khó nuốt có thể do các nguyên nhân khách quan, chủ quan gây ra. Các nguyên nhân thường gặp bao gồm:
Người bệnh bị hẹp thực quản do bị viêm thực quản nặng
Viêm thực quản là bệnh lý thể hiện sự viêm các lớp ở niêm mạc thực quản do trào ngược acid từ dạ dày lên hoặc các tác nhân khác. Acid sẽ khiến cho lớp niêm mạc đoạn thực quản dưới bị viêm. Viêm thực quản do trào ngược acid là bệnh lý khá phổ biến, tuy nhiên, biến chứng hẹp thực quản có thể sẽ gây ra tình trạng khó nuốt ở người bệnh
Ung thư thực quản
Ung thư thực quản là căn bệnh nan y nguy hiểm và không thường gặp, đối tượng dễ mắc ung thư thực quản thường lớn hơn 55 tuổi, việc chẩn đoán bệnh sớm ở giai đoạn đầu có thể mang đến cơ hội chữa khỏi và giảm thiểu nguy cơ tử vong cho người bệnh. Khi mắc phải căn bệnh này, người bệnh cũng có thể mắc phải triệu chứng khó nuốt do các khối u phát triển và làm hẹp lòng thực quản.
Hẹp thực quản do nguyên nhân khác
Người bệnh bị khó nuốt do hẹp thực quản (bị viêm thực quản hoặc ung thư thực quản), tuy nhiên, cũng có thể do các nguyên nhân khác như sau xạ trị thực quản hoặc phẫu thuật, uống phải chất tẩy rửa hay chất hóa học có thể gây phá hủy.
Màng ngăn hay vòng thực quản
Vòng thực quản hay màng ngăn đều là những khối u lành tính phát triển từ mô thực quản, nguyên nhân gây tình trạng khó nuốt này thường ít gặp phải ở người bệnh và đôi khi người bệnh bị vòng thực quản và màng ngăn cũng không gây triệu chứng gì ngoài khó nuốt, nuốt vướng.
Đờ thực quản
Đờ thực quản là căn bệnh có thể tác động lên cả thần kinh và cơ để chi phối cơ thực quản. Người bệnh bị đờ thực quản sẽ có cơ không thể co lại để đẩy thức ăn xuống dạ dày, ngoài ra, việc cơ thắt và mở không đúng thời điểm cũng sẽ làm cho thức ăn không thể qua thực quản để xuống dạ dày một cách dễ dàng, chính điều này đã làm cho người bệnh gặp phải chứng khó nuốt.
Mắc các bệnh lý thần kinh khác
Việc mắc phải các rối loạn thần kinh cơ khác trong cơ thể cũng sẽ làm tác động lên hệ thống cơ thực quản và thần kinh rồi gây ra chứng khó nuốt. Tuy nhiên, những trường hợp này, người bệnh sẽ thường thấy xuất hiện thêm một vài triệu chứng khác.
Chèn ép từ bên ngoài vào thực quản
Sự chèn ép từ bên ngoài vào các cấu trúc cạnh thực quản cũng có thể là nguyên nhân gây ra chứng khó nuốt ở người bệnh. Cũng giống như nguyên nhân khác, các triệu chứng khi bị chèn ép từ bên ngoài vào thực quản sẽ thường xuất hiện trước chứng khó nuốt.
Túi thừa thanh hầu
Đây là một căn bệnh hiếm gặp khi túi thừa tận cùng tách ra từ phần thấp nhất của họng là hạ họng, túi thừa thanh hầu thường xảy ra ở những người bệnh trên 70 tuổi và có thể không gây ra một triệu chứng nào ngoại trừ nuốt nghẹn và cảm giác luôn có gì đó vướng ở trong cổ họng, ho, khó thở và nôn ra thức ăn.
Ngoài các nguyên nhân gây khó nuốt kể trên thì người bệnh còn có thể gặp phải chứng bệnh này khi mắc phải các bệnh hiếm khác nhau và gây ra tình trạng viêm nhiễm hoặc giảm chức năng của thực quản.
Đối tượng nguy cơ
Chứng khó nuốt có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng nó phổ biến hơn ở người lớn tuổi. Một số yếu tố làm bạn tăng nguy cơ bị khó nuốt như:
- Lão hóa: do quá trình lão hóa tự nhiên và sự hao mòn thông thường ở thực quản cũng như nguy cơ mắc một số bệnh như đột quỵ hoặc bệnh Parkinson, người lớn tuổi có nguy cơ gặp khó khăn khi nuốt cao hơn. Tuy nhiên, chứng khó nuốt không được coi là một dấu hiệu lão hóa bình thường.
- Một số tình trạng sức khỏe tinh thần: những người bị rối loạn thần kinh hoặc hệ thần kinh nhất định có nhiều khả năng gặp khó khăn khi nuốt.
Chẩn đoán chứng khó nuốt
Để chẩn đoán khó nuốt, bác sĩ sẽ thăm khám lâm sàng bằng cách khai thác tiểu sử bệnh lý, sinh hoạt cá nhân,… Đồng thời, quan sát vùng cổ, ngực bên ngoài và dùng chiếc gương nhỏ để quan sát bên trong miệng, bao gồm bộ phận sau lưỡi, họng, thanh quản,…
Tiếp đến, bác sĩ tiến hành khám cận lâm sàng bằng các phương pháp sau:
- Chụp baryt cản quang nhằm phát hiện các bệnh lý liên quan đến thực quản gây khó nuốt.
- Cho người bệnh ăn thực phẩm có phủ bari để nghiên cứu cử động nuốt tại các vị trí tắc nghẽn thực quản, đồng thời, xác định thức ăn có đi vào đường khí quản hay không.
- Nội soi thanh quản, thực quản và đường tiêu hóa trên để xác định tình trạng viêm loét hay sự xuất hiện của khối u.
- Nếu kết quả chụp và nội soi không bất thường, bác sĩ sẽ chỉ định kiểm tra nồng độ pH và đo áp lực cơ thực quản.
- Chụp CT cắt lớp để xem xét, đánh giá chi tiết các cơ quan và mô.
Phòng ngừa bệnh
Khó nuốt có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe nếu là nguyên nhân bệnh lý, không được phát hiện và can thiệp y tế kịp thời. Tuy không có biện pháp nào để ngăn ngừa nhưng bạn có thể tham khảo những cách sau để giảm thiểu nguy cơ nuốt nghẹn:
- Nên ăn chậm nhai kỹ và nuốt từ từ
- Ưu tiên thực phẩm mềm, tránh thức ăn và đồ uống quá nóng hoặc lạnh
- Nên cắt nhỏ các loại thức ăn có tính dai, nhầy, trơn
- Khi dùng bữa cần giữ tinh thần thoải mái, không nên bức xúc và tức giận
Điều trị như thế nào?
Căn cứ vào nguyên nhân gây bệnh cũng như mức độ bệnh mà bác sĩ sẽ có hướng điều trị phù hợp. Phương pháp điều trị bao gồm:
- Điều trị bằng nội khoa: Trường hợp khó nuốt do vi trùng, người bệnh thường được điều trị bằng thuốc kháng sinh (thường do virus hoặc nấm gây ra). Điều trị trào ngược dạ dày – thực quản (GERD) sẽ dùng thuốc kháng acid dạ dày, thuốc ức chế bơm proton (PPI) để kiểm soát trào ngược acid. Sử dụng thuốc giãn cơ trơn trong những trường hợp bị co thắt thực quản. Lưu ý, người bệnh chỉ được dùng thuốc đặc trị theo chỉ định của bác sĩ.
- Nong thực quản: Bác sĩ cân nhắc chỉ định tiêm độc tố botulinum (Botox®) hay một số thủ thuật (như nong thực quản) nếu người bệnh bị co thắt thực quản, hẹp thực quản hay rối loạn nhu động.
- Phẫu thuật: Trường hợp bị ung thư thực quản, bác sĩ sẽ chỉ định cắt bỏ, hóa trị, xạ trị, hay điều trị giảm nhẹ. Bệnh nhân thường được chỉ định phẫu thuật thực quản khi phát hiện khối u thực quản, u vùng cổ hay túi thừa thực quản.
Người bệnh cần đi khám khi triệu chứng nuốt nghẹn thường xuyên và có tần suất tăng lên. Đặc biệt, trường hợp nghẹn cổ kèm khó thở, yếu cơ đột ngột, không thể nuốt thức ăn… nên khám càng sớm càng tốt.
Lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc Chuyên viên y tế để được tư vấn cho từng trường hợp Bệnh cụ thể, không tự ý làm theo hướng dẫn của bài viết.