Vào mùa mưa, ở những nơi hay có lá mục và cây cỏ rậm rạp thì vắt sinh sản rất nhiều (nhất là trong rừng). Khi bị vắt cắt, chỗ bị cắn sẽ chảy máu liên tục, rất ngứa và sưng. Thậm chí, sau một thời gian dài, chỗ bị cắn ấy vẫn còn dấu và da như bị chai sần. Nhiều trường hợp, vết thương do vắt cắn còn thành biến chứng.
Vì vậy, người xưa mỗi khi bị vắt cắn thường tìm những loài thảo dược để đắp lên vết thương. Trong số đó, có thể kể đến cách dùng bột xạ hương trộn với bột chu sa để bôi lên.
Có lẽ hơn 2500 năm trước, khi chu sa (đan sa) được ghi chép trong “Sơn hải kinh” thì công dụng và mối nguy hại từ nó cũng đã được khám phá dần.
Và ngày nay, chúng ta vẫn còn nghe nhắc ít nhiều đến “thủ cung sa” – dấu chấm đỏ trên cánh tay (cách vai một tấc) dùng để kiểm nghiệm trinh tiết của những cô gái Trung Hoa thời xưa. Theo tương truyền thì dấu “thủ cung sa” này được làm bằng cách cho thằn lằn ăn đan sa đến khi đủ liều thì giã nhuyễn và chấm lên (từ đó, nếu cô gái nào không còn trinh tiết thì chấm đỏ ấy sẽ biến mất). Hiển nhiên, ngày nay, ta biết đây chỉ là phương pháp xiềng xích phụ nữ bằng tâm lý (1).
Được biết, chu sa còn là thành phần chủ yếu để luyện “thuốc trường sinh” trong thuật luyện đan lão giáo Trung Quốc. Nhìn chung, phương pháp luyện tiên đan nói trên cũng bộc lộ nhiều mối nguy hại đến tính mạng nhưng nó cũng cho thấy mối liên hệ giữa hóa học và y học.
Đây là một loại khoáng vật tự nhiên, có thành phần chủ yếu là HgS và một ít lưu huỳnh ở trạng thái phân ly. Ngoài tên gọi này, vị thuốc này còn được gọi là đan sa, nhật tinh, thần sa, trân châu, thái dương, chu tước…
Điểm đặc biệt của chu sa là màu của nó rất bền, không bị phai theo thời gian. Chính vì vậy, nó còn được dùng làm thuốc nhuộm cao cấp và kết quả khai quật cho thấy những tấm vải từ đời Hán có hoa văn nhuộm bằng chu sa thì đến nay, màu sắc hoa văn ấy vẫn nguyên vẹn.
Theo các ghi chép thì chu sa được khai thác từ đất Thần Châu (tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc) là loại tốt nhất (vì vậy mà có tên gọi “Thần sa”). Ở những nơi khác, chu sa có thể bị lẫn tạp chất và bị xem là loại hạ phẩm (những loại này dùng lâu sẽ gây tác dụng phụ) (2).
Chu sa là vị thuốc có độc vì trong thành phần của nó có một lượng nhỏ lưu huỳnh phân ly. Vì vậy, khi dùng quá liều hoặc dùng trong thời gian dài thì cơ thể chúng ta sẽ bị nhiễm độc lưu huỳnh (gây ra bệnh tật và thậm chí là tử vong).
Bên cạnh đó, quyển Chu lễ còn nhấn mạnh: “Đan sa gặp lửa, độc như thạch tín, uống vào tất sẽ trúng độc“. Chính vì vậy, các “tiên đan” luyện từ chu sa (cùng một số thành phần khác) cũng chính là nguyên nhân dẫn đến cái chết của nhiều vị vua tham “trường sinh bất lão” trong lịch sử Trung Hoa như Đường Hiến Tông, Đường Mục Tông… (2).
Trong y học cổ truyền, chu sa thường được dùng theo sự chỉ định của thầy thuốc để điều trị một số bệnh như:
Bài thuốc giải độc đậu mùa này dùng khi đậu mùa mới xuất hiện (da sắp nổi mụn)